Các Yếu Tố Quan Trọng Gây Nên Bệnh Sâu Răng
Các Yếu Tố Quan Trọng Gây Nên Bệnh Sâu Răng
Sâu răng là một bệnh răng miệng phổ biến nhất ở người nếu để lâu dài sẽ sinh ra các biến rất lớn. Có nhiều định nghĩa về bệnh sâu răng nhưng tất cả đều cùng quan điểm cho đó là một nhiễm khuẩn của tổ chức canxi hóa được đặc trưng bởi sự hủy khoáng của thành phần vô cơ và sự phá hủy thành phần hữu cơ của mô cứng.
Tổn thương sâu răng là quá trình phức tạp bao gồm các phản ứng hóa lý liên quan đến sự di chuyển các ion bề mặt giữa răng và môi trường miệng và là quá trình sinh học giữa các vi khuẩn mảng bám với cơ chế bảo vệ của vật chủ. Một số nguyên nhân gây ảnh hưởng gây nên sâu răng như:
1. Đường – Nguyên nhân gây sâu răng
Nhiều báo cáo khoa khọc đã chứng minh được rằng thức ăn có nhiều đường có ảnh hưởng tới sâu răng. Năm 1950 schaw và Sognaes đã chứng minh trên thực nghiệm bằng 2 lô chuột. Lô 1: ăn trực tiếp thức ăn có 60% đường thì thấy chuột bị sâu răng. Lô 1: cho ăn gián tiếp bằng cách bơm thẳng vào thực quản thì chuột không bị sâu răng.
– Sự lên men đường có vai trò quan trọng trong việc gây bệnh sâu răng. Các loại carbohydrate khác nhau có đặc tính gây sâu răng khác nhau: Sucrose (đường mía) có khả năng gây sâu răng cao hơn các loại đường Glucose, maltose, fructose galactose và lactose.
Đường trong chế độ ăn có thể chia thành 2 loại: đường nội sinh (đường có sẳn trong rau và các loại hoa quả) và đường ngoại sinh (đường bổ sung, nước ép, sữa…). Đường ngoại sinh có khả năng gây bệnh cao hơn do vậy trong chế độ ăn uống nên giảm loại thực phẩm này
– Sự liên quan trực tiếp giữa chế độ ăn đường và tỷ lệ bệnh sâu răng phụ thuộc vào cách thức, tần suất ăn đường hơn là tổng lượng đường tiêu thụ của mỗi cá thể.
2. Vai trò của vi khuẩn trong bệnh sâu răng?
Năm 1951, Blathey va Orland đã chứng minh trên thực nghiệm bằng cách nuôi 2 lô chuột. Lô 1: cho ăn trực tiếp bằng thức ăn gây sâu răng có 60% là đường trong môi trường vô khuẩn. Lô 2: cho ăn trực tiếp bằng thức ăn gây sâu răng có 60% là đường nhưng trong môi trường vô khuẩn. Sau một thời gian các tác giả thấy rằng: lô chuột nuôi trong môi trường vi khuẩn tỷ lệ sâu răng cao. Như vậy, vi khuẩn và đường có vai trò quan trọng gây sâu răng.
* Một số vi khuẩn có khả năng gây bệnh sâu răng
– Streptocccus muntans là chủng vi khuẩn có khả năng gây sâu răng cao nhất trong nghiên cứu thực nghiệm trên động vật.
– Các chủng vi khuẩn khác như S.sanguis, S.mitis, S.oralis và các loại Actinomyces và Lactobacillus cũng gây sâu răng thực nghiệm trên động vật. Actinomyces đặc biệt có vai trò quan trọng trong sâu chân răng, kết hợp cùng các chủng S.mutans và Lactobacillus
3. Nước bọt bệnh sâu răng
Nước bọt đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ răng, giảm sâu răng nhờ các yếu tố sau:
– Dòng chảy, tốc độ dòng chảy của nước bọt là yếu tố làm sạch tự nhiên để loại bỏ các mảng bám và vụn thức ăn còn sót lại sau ăn và vi khuẩn trên bề mặt răng.
– Cung cấp các ion Ca2+, PO43- và Fluor để tái khoáng hóa men răng, các Bicarbonate tham gia vào quá trình đệm.
– Tạo một lớp màng mỏng từ nước bọt có vai trò như một hàng rào bảo vệ men răng khỏi pH nguy cơ.
– Cung cấp các kháng thể IgG, IgM đề kháng vi khuẩn
4. Một số yếu tố khác
– Vai trò của yếu tố vi lượng:
+ Fluor: Nhiều nghiên cứu thấy rõ rằng Fluor có tác dụng làm giảm sâu răng. Cơ chế là do Fluor kết hợp với apatit của men răng, ngà răng thành Fuor apatit cứng hơn men và ngà rất nhiều. Nhiều nghiên cứu thấy rằng, vùng mà có tỷ lệ Fluor trong nước ăn hàng càng cao thì tỷ lệ sâu răng càng thấp
+ Vitamin D và Canxi: vitamin D giúp hấp thu canxi. Vì vậy còi xương kháng vitamin D làm cho sự lắng đọng canxi kém ảnh hưởng tới độ cứng của men răng, tạo điều kiện cho sâu răng dễ phát triển nhanh hơn
– Các yếu tố nội sinh của răng
+ Men răng: Khả năng hòa tan men tỷ lệ nghịch với nồng độ fluor của men răng do các tinh thể fluorapatite ít bị hòa tan bởi acid hơn các tinh thể hydroxyapatite khi pH trên 4,5 (tới hạn của fluorapaptite).
+ Nồng độ của ion fluor trong cấu trúc men răng có thể lên tới 2500-4000p.p.m (132-210μmol/l), nhưng nồng độ nước bọt chỉ ở mức 0,03p.p.m (1,6μmol/l). Do vậy sự kết hợp của ion fluor vào cấu trúc của răng trong quá trình phát triển hoặc sử dụng fluor tại chỗ sau khi răng mọc làm giảm sự hủy khoáng và tăng cường khả năng tái khoáng men răng
+ Thiểu sản men răng hay men răng kém khoáng hóa có thể ảnh hưởng đến tiến triển của tổn thương sâu răng nhưng không gây tăng tỷ lệ các tổn thương khởi phát.
+ Hình thể răng: Răng có hố rãnh sâu có nguy cơ sâu răng cao do dễ lắng đọng và tập trung mảng bám.
+ Vị trí răng: Răng lệch lạc làm tăng khả năng lưu giữ mảng bám
– Chế độ ăn:
+ Chế độ ăn có chứa nhiều phosphate có khả năng giảm tỉ lệ sâu răng. Tăng chất béo trong khẩu phần ăn có thể làm giảm tác động của các tác nhân gây bệnh sâu răng.
+ Ăn nhiều đường, nhất là ăn vặt thường xuyên giữa các bữa ăn chính làm tăng nguy cơ sâu răng.
+ Thói quen ăn uống trước khi đi ngủ, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, việc cho bú bình kéo dài với sữa và các loại chất ngọt nhất là bú trong khi đi ngủ làm tăng tỷ lệ sâu răng gây nên hội chứng bú bình.
– Chỉnh nha, sử dụng hàm giả bán phần, trám răng không đúng quy cách làm tăng khả năng lưu giữ các mảnh thức ăn, mảng bám vi khuẩn do đó làm tăng nguy cơ gây sâu răng.
– Yếu tố di truyền: liên quan đến hình thể, cấu trúc răng, nước bọt, độ nhạy cảm với vi khuẩn… Tuy nhiên nó chỉ tác động rất nhỏ so với yếu tố môi trường.
Tóm lại:
Sâu răng được coi là một bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra, các nguyên nhân này chia làm 2 nhóm: nhóm chính và nhóm phụ. Nhóm chính: do vi khuẩn, đường và đặc điểm của răng. Nhóm phụ: vai trò của nước bọt, di truyền, đăc tính lý hóa của răng…nhóm này có tác động làm tăng hay giảm sâu răng và gây ra các vị trí lỗ sâu khác nhau
No comments: